06/09/2021

 

Ung thư là một tập hợp rộng rãi các bệnh có thể bắt đầu ở bất kỳ cơ quan hoặc mô nào của cơ thể khi các tế bào phát triển bất thường và di chuyển ra ngoài không gian của chúng để tấn công các khu vực xung quanh và cũng lây lan sang các cơ quan khác nhau. Có rất nhiều loại ung thư như ung thư vú, ung thư da, ung thư xương, ung thư phổi, ung thư ruột kết, ung thư tuyến tiền liệt và nếu không được điều trị sẽ gây hại nghiêm trọng và cuối cùng có thể dẫn đến tử vong. Các nguyên nhân khác nhau của ung thư bao gồm các yếu tố di truyền, cách sống, chế độ ăn uống, tiếp xúc với các loại hợp chất tổng hợp và bức xạ. 

 

Nhiều loại ung thư có thể tiến triển theo những cách bất thường, phát triển với tốc độ khác nhau và phản ứng với điều trị khác nhau, do đó, mỗi phương pháp điều trị ung thư đều tập trung vào loại ung thư cụ thể. Liệu pháp điều trị ung thư được sử dụng trong điều trị bệnh nhân ung thư bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và gần đây là chất chống oxy hóa đã được đề xuất để mang lại lợi ích cho bệnh nhân ung thư trong quá trình điều trị ung thư.

 

GỐC TỰ DO 

 

Các gốc tự do được hình thành tự nhiên trong cơ thể và đóng một vai trò quan trọng trong nhiều quá trình tế bào bình thường. Gốc tự do là một hạt có khả năng tồn tại độc lập và có ít nhất một điện tử chưa ghép đôi ở lớp vỏ bên ngoài của nó. Hầu hết các gốc tự do đều phản ứng mạnh và không ổn định do số lượng electron. Do đó, chúng nhanh chóng phản ứng với các chất khác nhau để đạt được sự ổn định. Gốc tự do tấn công hạt tử ổn định gần nhất và thu nhận điện tử của nó, trong khi đó, hạt bị tấn công có thể biến thành gốc tự do bằng cách mất điện tử của nó và bắt đầu một chuỗi phản ứng gây hại cho các tế bào sống. 

 

Ví dụ về các gốc tự do là anion superoxide, lipid alkoxyl, lipid peroxide, lipid peroxyl và gốc hydroxyl. Tuy nhiên, ở nồng độ cao, các gốc tự do có thể nguy hiểm cho cơ thể và làm hỏng tất cả các thành phần chính của tế bào, bao gồm DNA, protein và màng tế bào. Tổn thương tế bào gây ra bởi các gốc tự do, đặc biệt là tổn thương DNA, có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của ung thư và các tình trạng sức khỏe khác.    

 

Các gốc tự do chứa nguyên tố oxy là loại gốc tự do phổ biến nhất được tạo ra trong mô sống. Một tên khác của chúng là “các loại oxy phản ứng” hoặc “ROS”.

     

CHẤT CHỐNG OXY HÓA

 

Chất chống oxy hóa hoạt động như những chất khử gốc tự do hoặc các loại oxy phản ứng (ROS) và ngăn chặn quá trình oxy hóa dẫn đến một số tình trạng bệnh. Chất chống oxy hóa cản trở quá trình oxy hóa lipid, DNA, đường và protein ở nồng độ thấp. Chất chống oxy hóa được tìm thấy trong thực vật, nhiều loại thực phẩm và một số được tổng hợp trong cơ thể. 

 

Trong thời gian gần đây, việc sử dụng các sản phẩm tự nhiên ngày càng tăng và các báo cáo đã chỉ ra rằng việc tiêu thụ rau và trái cây có chứa chất chống oxy hóa có thể liên quan đến việc giảm tần suất các bệnh do các loại oxy phản ứng (ROS) gây ra, chẳng hạn như bệnh tim mạch, ung thư, vv. Stress oxy hóa và các tác động gây hư hỏng của nó có thể được ngăn chặn thông qua việc tiêu thụ các chất chống oxy hóa tự nhiên. 

 

Polyphenol và carotenoid (chất chống oxy hóa tự nhiên) cho thấy các hoạt động như chống xơ vữa động mạch, chống lão hóa, chống viêm và chống ung thư. Các chất chống oxy hóa hoạt động trong cơ thể để tăng cường sức khỏe và sức mạnh, đặc biệt là ở tuổi già. Chúng đảm bảo bảo vệ khỏi tổn thương các mô và da do sản sinh các gốc tự do. Trong các ngành công nghiệp, chúng giúp mở rộng thời hạn sử dụng thực phẩm và được thêm vào các sản phẩm chăm sóc da nhằm mục đích chống lão hóa.

 

Các chất chống oxy hóa được nhóm thành ba loại cơ bản:

 

Các chất chống oxy hóa bảo vệ dòng chính bao gồm superoxide dismutase (SOD), glutathione reductase (GR), catalase (CAT) và các khoáng chất như Zn, Se và Cu, v.v.

Dòng thứ hai bao gồm glutathione (GSH), flavonoid, carotenoid, vitamin C, vitamin E, v.v.

Dòng thứ ba liên quan đến sự kết hợp phức tạp của các hóa chất chịu trách nhiệm sửa chữa DNA, protein, lipid bị oxy hóa và peroxit bị hư hỏng. Ví dụ như các enzyme sửa chữa DNA, methionine sulphoxide reductase, protease, lipase, transferase, v.v. 

 

UNG THƯ VÀ CHẤT CHỐNG OXY HÓA

 

CHẤT CHỐNG OXY HÓA TRONG CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG

 

Chất chống oxy hóa trong chế độ ăn uống là những chất được tìm thấy trong thực phẩm và nó đảm bảo bảo vệ các tế bào, mô và DNA chống lại tác hại oxy hóa của các gốc tự do. Chế độ ăn uống bổ sung chất chống oxy hóa bao gồm protein, tinh bột, natri, chất xơ, chất béo cũng như khoáng chất và vitamin. Các chất chống oxy hóa trong chế độ ăn uống có cả tác động chống oxy hóa và chống oxy hóa liên quan đến các chất dinh dưỡng (tocopherol, carotenoid, pro-vitamin A, axit ascorbic, các vi chất dinh dưỡng cơ bản có vai trò sinh lý) và cũng liên quan đến chất phytochemical và polyphenol. Việc tiêu thụ anthocyanins (một chất chống oxy hóa có trong quả mọng) trong chế độ ăn đã cho thấy tình trạng tăng huyết áp giảm khoảng 8%. Các chất dinh dưỡng trong chế độ ăn uống cũng đã cho thấy sự cải thiện đáng kể trong các chức năng cơ thể như sức khỏe não bộ, cải thiện sự trao đổi chất của hệ thần kinh, v.v. 

 

Kể từ khi các bằng chứng khoa học xác định vai trò của các gốc tự do trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh như tim mạch, ung thư, đã có nhiều nghiên cứu đáng kể về các đặc tính chống oxy hóa tự nhiên để cải thiện các tác dụng đó. Chất chống oxy hóa trong chế độ ăn uống có thể có những tác động hữu ích đối với cơ thể bằng cách loại bỏ các gốc tự do và cả khả năng khử  oxy hóa nếu chúng có sẵn trong các mô ở nồng độ thích hợp.

 

Một số chất chống oxy hóa điển hình trong chế độ ăn:

 

UNG THƯ VÀ CHẤT CHỐNG OXY HÓA

Vitamin C

Vitamin C (axit ascorbic) rất quan trọng đối với sức khỏe của cơ thể bằng cách hoạt động như một chất quét sạch gốc tự do cực mạnh. Axit ascorbic là một loại vitamin hòa tan trong nước và là một chất bổ sung rất lớn để hấp thu nhanh chóng ở ruột. Nó cần thiết cho sự tổng hợp collagen trong cơ thể, cần thiết trong việc điều chỉnh norepinephrine từ dopamine và hoạt động trong quá trình tiêu hóa tyrosine. Ví dụ về các nguồn tự nhiên giàu vitamin C là trái cây, dứa, anh đào, trái cây họ cam quýt, khoai tây, hạt tiêu, dâu tây, quả lý gai, bông cải xanh, trái kiwi và ớt bột, v.v. 

 

Vitamin D

Vitamin D là một loại vitamin tan trong chất béo được biết là đảm nhận một vai trò quan trọng trong việc cân bằng nội môi của xương và canxi, đồng thời có chức năng như một chất chống viêm vì nó ngăn chặn sự biểu hiện của cytokine trong tế bào và thúc đẩy bạch cầu đơn nhân/ đại thực bào phát ra các phân tử có tác dụng kháng sinh mạnh mẽ. Sự thiếu hụt của nó có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm. Gần 95% vitamin D được tập hợp trong lớp biểu bì của da khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, phần còn lại được lấy từ các nguồn thực phẩm khác nhau. Trong thực phẩm,  dầu cá chứa lượng vitamin D lớn nhất, các nguồn khác bao gồm sữa, cam,…

 

Vitamin E

Vitamin E còn được gọi là tocopherol là một loại vitamin tan trong chất béo. Vitamin E có khả năng bảo tồn màng sinh học và axit nucleic trong cơ thể khỏi sự tấn công của các gốc tự do. Vitamin E có nhiều trong các loại rau, dầu thực vật, hạnh nhân, óc chó,… Vitamin E được phát hiện có khả năng ức chế khối u.

 

Flavonoid

Thực vật có nhiều flavonoid cần thiết để giảm thiểu sự phát triển của bệnh tật. Các hợp chất flavonoid cơ bản liên quan đến anthocyanins, isoflavone, flavon,… Flavonoid phá hủy các gốc tự do bằng cách biến đổi chúng thành các gốc phenolic (không hoạt động) sau khi cung cấp hydro cho các gốc hợp chất lipid. Thực phẩm có chứa một lượng lớn flavonoid bao gồm thảo mộc, hành tây, quả việt quất, chuối và tất cả các loại trái cây họ cam quýt, v.v. 

 

BỔ SUNG CHẤT CHỐNG OXY HÓA TRONG CHẾ ĐỘ ĂN NGĂN NGỪA UNG THƯ 

 

UNG THƯ VÀ CHẤT CHỐNG OXY HÓA

 

Oligomeric proanthocyanidins (OPCs)

Oligomeric proanthocyanidins là một polyphenol flavonoid phong phú nhất trong giới thực vật. Proanthocyanidins là một phần không thể thiếu trong chế độ ăn uống của con người, được tìm thấy ở nồng độ cao trong trái cây, rau và hạt cũng như trong hầu hết các loại trà và rượu vang đỏ. 

 

Nhiều nghiên cứu đã báo cáo rằng flavonoid có tác dụng chống oxy hóa mạnh thông qua việc loại bỏ các gốc superoxide và hydroxyl và các hành động chống tăng sinh thông qua ức chế các con đường trao đổi chất và ức chế truyền tín hiệu trong tế bào. 

 

Ngoài ra, nhiều loại proanthocyanidin đã được chứng minh là chống vi khuẩn, chống virus, chống ung thư, chống viêm, chống dị ứng và do đó làm giảm nồng độ của các loại oxy phản ứng và oxy hóa lipoprotein mật độ thấp và tác dụng bảo vệ tim mạch trong cơ thể  người.

 

Carnésecchi và cộng sự năm 2002 đã báo cáo tác dụng chống tăng sinh của procyanidins từ chiết xuất ca cao đối với sự ức chế sự phát triển của tế bào ung thư ruột kết ở người bằng cách phong tỏa chu kỳ tế bào ở pha G2/M. OPC đã chứng minh tác dụng chống tăng sinh ở chuột Hepa-1c1c7, tác dụng gây độc tế bào trên các tế bào ung thư được chọn ở người, bao gồm ung thư vú MCF-7 được nuôi cấy, ung thư biểu mô tuyến dạ dày CRL1739 và tế bào ung thư phổi A-427. Các báo cáo này đã chứng minh rằng OPC ảnh hưởng đến sự tăng sinh và phát triển của tế bào ung thư.

 

Hơn nữa, Joshi và cộng sự đã chứng minh rằng proanthocyanidin trong hạt nho cải thiện tác dụng độc hại liên quan đến các tác nhân hóa trị liệu như 30nmol/ L idarubicin và 1μg/mL 4-hydroxy peroxy cyclophosphamide (4-HC) trên tế bào gan. Những phát hiện này cho thấy rằng việc điều trị bằng OPC cho thấy độc tính thấp đối với các tế bào bình thường và nó có thể có tác dụng chống khối u mới trên các tế bào ung thư đại trực tràng ở người. (1)

 

UNG THƯ VÀ CHẤT CHỐNG OXY HÓA

 

MEN VI SINH PROBIOTICS

 

Theo định nghĩa của FAO & WHO, men vi sinh Probiotics là những vi sinh vật có lợi khi đưa vào cơ thể số lượng đủ đem lại lợi ích sức khỏe cho cơ thể. Men vi sinh Probiotics tìm thấy trong các thực phẩm lên men truyền thống, hiện nay được sản xuất dưới dạng thực phẩm chức năng hay dược phẩm. 

 

Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều sự quan tâm đến việc ứng dụng men vi sinh probiotics có thể là một phần của liệu pháp kết hợp với điều trị ung thư thông thường. Một nghiên cứu ban đầu nhưng có kiểm soát và so sánh trên 223 bệnh nhân được thực hiện vào năm 1993 cho thấy liệu pháp kết hợp bao gồm bức xạ và điều trị bằng các chủng Lactobacillus  casei làm cải thiện cảm ứng cơ chế đáp ứng miễn dịch chống lại các tế bào ung thư, do đó tăng cường sự thoái triển của khối u ở bệnh nhân với ung thư biểu mô của cổ tử cung.

 

UNG THƯ VÀ CHẤT CHỐNG OXY HÓA


 

Một cơ chế ngăn ngừa ung thư khác liên quan đến vi khuẩn probiotic, chủ yếu là các chủng Lactobacillus và Bifido Bacillus. Các chủng L. acidophilus và B. bifidum đã được chứng minh là có hiệu quả chống ung thư như Lactobacillus giảm tỷ lệ mắc ung thư ruột kết từ 40-70%, do có  liên quan đến sự liên kết và phân hủy của các chất gây ung thư tiềm ẩn.

 

Lợi khuẩn probiotic đóng một vai trò thiết yếu trong việc duy trì cân bằng nội môi, duy trì các điều kiện lý hóa bền vững trong ruột kết. Độ pH giảm do sự hiện diện quá nhiều của axit mật trong phân có thể là một yếu tố gây độc tế bào, trực tiếp ảnh hưởng đến biểu mô ruột kết dẫn đến sinh ung thư ruột kết. Có rất nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa dùng men vi sinh và giảm nguy cơ mắc ung thư ruột kết và đại trực tràng (2).

 

AustrapharmVN

Nguồn tham khảo : THE TWO SIDES OF DIETARY ANTIOXIDANTS IN CANCER THERAPY

https://www.intechopen.com/online-first/74332

(1)

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4615409/

(2)

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6586914/#:~:text=Probiotic%20bacteria%20have%20the%20ability,eliminate%20early%2Dstage%20cancer%20cells.


 

 

Bài viết liên quan